Bệnh tiểu đường có ảnh hưởng nhất định đến người mẹ và thai nhi trong thời gian mang thai, và ngược lại, ở phụ nữ có thai việc kiểm soát bệnh tiểu đường cũng trở nên khó khăn hơn.
Khi người bệnh tiểu đường có thai hoặc khi người có thai bị tiểu đường đều có thể có những ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của cả người mẹ và thai nhi:
Người có bệnh tiểu đường khi mang thai dễ gặp tình trạng nhiễm độc thai nghén hơn các thai phụ khác (tiền sản giật và sản giật với các dấu hiệu cao huyết áp, protein niệu và phù trong thời kỳ mang thai). Thai phụ cũng dễ bị nhiễm trùng nặng; tỷ lệ sinh phải can thiệp ngoại khoa cao hơn (mổ sinh, chịu các thủ thuật do sinh khó). Sau khi sinh bệnh tiểu đường có thể tiến triển nặng hơn, có khoảng 5% đến 20% bà mẹ bị tiểu đường thai kỳ (bệnh chỉ xuất hiện sau khi mang thai) sau khi sinh vẫn tiếp tục bị bệnh. Phụ nữ mang thai mắc bệnh tiểu đường cũng có nguy cơ sẩy thai cao hơn, đặc biệt, nếu kiểm soát đường huyết không tốt.
Ở các bà mẹ bị tiểu đường, thai nhi có tỷ lệ tử vong cao hơn, thai có thể bị dị tật hoặc chậm phát triển. Phần lớn các nghiên cứu chỉ ra rằng bất thường bẩm sinh tăng gấp 3 lần ở những thai nhi có mẹ mắc bệnh tiểu đường. Thời gian bị ảnh hưởng (gây bất thường bẩm sinh) rất giới hạn, khi tuổi thai khoảng 3-6 tuần. Vì vậy, việc kiểm soát đường huyết chặt chẽ sớm trong thai kỳ, thậm chí ngay cả trước khi có thai, sẽ giúp ngăn ngừa những bất thường của thai nhi.
Phổi của thai trong tử cung người mẹ mắc bệnh tiểu đường thường phát triển chậm hơn so với thai nhi của các bà mẹ không bị bệnh. Do đó, nếu trẻ bị sinh non thì nguy cơ suy hô hấp nặng cũng tăng cao hơn so với các trẻ khác. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ trẻ có mẹ bị tiểu đường bị suy hô hấp tăng gấp 5 – 6 lần so với trẻ có mẹ bình thường.
Con của các bà mẹ tiểu đường thường nặng cân (4kg hoặc hơn) và to cả các bộ phận nội tạng trừ não. Bởi vì khi đường huyết tăng, thai nhi tăng tiết Insulin để tiêu thụ đường, dẫn đến tăng dự trữ năng lượng dưới dạng Glycogen ở lớp mỡ của thai nhi và tăng cân. Vì thế, các trường hợp này thường gây đẻ khó, tỷ lệ phải mổ cao và nếu đẻ thường thì rất dễ bị sang chấn. Ở các bà mẹ mắc bệnh tiểu đường, thai tuy to nhưng lại kém về chức năng và kém phát triển sau khi sinh, đặc biệt là phát triển về trí tuệ, tâm thần, vì vậy thường được coi là "những em bé khổng lồ nhưng chân đất sét”.
Những giờ đầu tiên sau khi sinh, con của những bà mẹ bị tiểu đường có thể bị hạ đường huyết, thậm chí nếu hạ đường huyết kéo dài và trầm trọng có thể làm tổn thương não của trẻ. Tuy nhiên việc kiểm soát đường huyết tốt ở người mẹ có thể ngăn ngừa tình trạng này, vì vậy người mẹ cần được giám sát đường huyết chặt chẽ và sau sinh phải kiểm tra và theo dõi thường xuyên tình trạng sức khỏe của trẻ.
Con của những bà mẹ bị tiểu đường thường bị vàng da nhẹ, do lượng Bilirubin trong máu tăng cao. Hiện tượng này có thể được điều trị bằng cách bù nước và chiếu đèn.
Người mẹ mang thai bị tiểu đường cần kiểm soát đường huyết tốt
Thai nghén có thể coi là một yếu tố sinh bệnh tiểu đường. Ngay cả khi bạn hoàn toàn khoẻ mạnh, bạn vẫn có thể bị bệnh tiểu đường khi mang thai – y học gọi tình trạng này là đái tháo đường thai kỳ. Bởi vì khi mang thai, nhau thai sẽ tiết ra nhiều hoóc môn khác nhau để thai phát triển, khiến các nội tiết tố của cơ thể người mẹ bị thay đổi. Trong khi đó các hoóc môn của nhau thai hầu hết đều là các chất có thể gây tăng đường huyết. Vì vậy, người phụ nữ trước đây chưa bao giờ bị tiểu đường, đến khi có thai có thể mắc bệnh tiểu đường do thai nghén, bệnh thường khỏi hẳn sau khi sinh con, tuy nhiên vẫn có một số ít trường hợp vẫn tiếp tục bị tiểu đường hoặc phát triển thành đái tháo đường typ 2 sau đó.
Với người đã bị tiểu đường trước khi mang thai thì khi có thai bệnh dễ bị nặng hơn. Tình trạng hạ đường huyết dễ xảy ra ngay từ những tháng thai nghén đầu tiên do tình trạng nghén: ăn uống kém, nôn mửa; nhất là đối với người bệnh phải điều trị thường xuyên bằng Insulin. Tình trạng nhiễm toan cũng dễ xảy ra vào những tháng giữa và cuối kỳ thai nghén. Khi chuyển dạ, do ăn uống kém, các cơ tử cung và cơ bắp của cơ thể phải vận động nhiều, tiêu tốn nhiều năng lượng thì nguy cơ hạ đường huyết rất cao. Khi đó có thể phải ngừng hẳn việc điều trị bằng Insulin và có khi còn phải truyền thêm dung dịch có đường cho sản phụ. Sau khi sinh, tác dụng của các hoóc môn nhau thai không tồn tại nữa thì cần điều chỉnh lại liều insulin phù hợp cho người bệnh.
Nên đi khám bác sĩ ngay từ trước khi mang thai và nếu có mang thai thì cần làm xét nghiệm đường huyết trong giai đoạn sớm (ba tháng đầu) của thai kỳ. Nếu kết quả bình thường thì sẽ được thực hiện tiếp xét nghiệm sàng lọc tình trạng bất dung nạp đường trong thai kỳ vào khoảng tuần thứ 24-28. Bác sĩ sẽ cho làm xét nghiệm dung nạp đường Glucose qua hệ tiêu hóa.
Tuy nhiên, theo Hội những nhà sản phụ khoa Mỹ, nên thực hiện xét nghiệm này cho tất cả các phụ nữ có thai vì tới khoảng 50% phụ nữ bị tiểu đường trong thai kỳ dù họ không thuộc nhóm có nguy cơ cao. Xét nghiệm sàng lọc này được thực hiện bằng cách cho thai phụ uống 75g đường và đo lượng đường huyết trong máu 2 giờ sau đó. Xét nghiệm này có thể thực hiện ở bất kỳ thời điểm nào trong ngày và không cần phải nhịn đói. Tuy nhiên, độ nhạy cảm của xét nghiệm tốt hơn khi thai phụ ở trong tình trạng đói. Nếu kết quả bất thường >140 mg/dl, thì thai phụ ấy có nguy cơ bị bệnh tiểu đường trong thai kỳ.
Ðể chẩn đoán chính xác hơn, bác sĩ sẽ cho tiếp tục xét nghiệm dung nạp 100gr đường trong ba giờ.
Thai phụ cần phải được theo dõi đường huyết và điều chỉnh liều thuốc, thực hiện chế độ ăn uống theo sự hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa. Ngoài ra, cần thực hiện các xét nghiệm khác để đánh giá sức khoẻ của thai nhi, siêu âm để theo dõi những thay đổi hệ thống mạch máu có thể làm tổn hại đến thai nhi.
Như vậy, những bà mẹ bị tiểu đường cần được theo dõi và chăm sóc chu đáo ở cả hai phía: các thầy thuốc sản khoa và các thầy thuốc chuyên khoa nội tiết điều trị bệnh tiểu đường. Mọi loại thuốc men và chế độ ăn uống trong giai đoạn thai nghén này cần theo đúng chỉ dẫn của các thầy thuốc chuyên khoa. Có như thế mới tránh được các rủi ro, tai biến cho cả mẹ và em bé.
Xem thêm:
8 loại trái cây tốt nhất cho người tiểu đường
Bệnh tiểu đường nên ăn gì? Thực đơn tốt nhất cho người tiểu đường