Đường huyết tăng cao làm tổn thương các mạch máu là nguyên nhân dẫn tới các biến chứng của bệnh tiểu đường, trong đó có biến chứng tim mạch.
Theo thông báo của Hiệp hội Đái tháo đường quốc tế, năm 1995, cả thế giới có 135 triệu người mắc bệnh đái tháo đường (chiếm 4% dân số toàn thế giới). Dự báo đến năm 2010 con số đó sẽ là 221 triệu người mắc bệnh đái tháo đường (ĐTĐ).
Trong số các biến chứng do bệnh ĐTĐ gây nên, biến chứng tim mạch là phổ biến nhất. Nguyên nhân tử vong do căn nguyên tim mạch chiếm tới 70% ở các bệnh nhân ĐTĐ. Chính vì vậy, việc hiểu biết đặc điểm về bệnh lý cũng như những biểu hiện lâm sàng của biến chứng tim mạch sẽ góp phần phòng ngừa, hạn chế sự tiến triển của bệnh tim mạch ở các bệnh nhân ĐTĐ.
Cơ chế quan trọng nhất là bệnh ĐTĐ sẽ gây nên tổn thương sớm ở tế bào nội mạc, làm rối loạn chức năng nội mạc mạch máu. Lớp nội mạc là lớp tế bào trong cùng của thành mạch, nơi tiếp xúc trực tiếp giữa thành mạch và các thành phần của máu. Khi chức năng nội mạc bị rối loạn nó sẽ làm cho các phân tử cholesterol dễ dàng chui qua lớp nội mạc vào trong, kết hợp với tăng khả năng kết dính và xuyên thành của tế bào bạch cầu vào trong lớp nội mạc. Từ đó sẽ hình thành mảng vữa xơ động mạch, hoặc mảng vữa xơ đã hình thành thì tiến triển rất nhanh dẫn đến hẹp dần lòng mạch, gây nên các biểu hiện lâm sàng của bệnh thiếu máu cục bộ mạn tính ở cơ quan tổ chức. Ngoài ra, khi lớp nội mạc mạch máu bị tổn thương, sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho sự co mạch kết hợp với sự kết dính các tế bào tiểu cầu, hình thành nên cục huyết khối trong lòng mạch làm tắc mạch cấp tính, gây nên các biểu hiện lâm sàng của thiếu máu cục bộ cấp tính của tổ chức như cơn đau thắt ngực không ổn định, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não... đe dọa nghiêm trọng tính mạng người bệnh.
Tùy theo vị trí của mạch máu bị tổn thương mà có các biểu hiện lâm sàng khác nhau. Nếu tổn thương động mạch mắt sẽ gây nên giảm thị lực rồi dẫn đến mù lòa. Nếu tổn thương ở động mạch thận sẽ dẫn đến suy thận, tăng huyết áp. Tổn thương động mạch vành sẽ dẫn đến cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, đột tử, tổn thương mạch máu não sẽ dẫn đến tai biến mạch máu não và tổn thương ở động mạch chi sẽ dẫn đến biểu hiện viêm tắc động mạch (đi cà nhắc cách hồi, hoại tử đầu chi...).
Đường huyết tăng cao làm tổn thương mạch máu gây ra biến chứng tim mạch
Các yếu tố này khi kết hợp với ĐTĐ sẽ làm tăng nguy cơ biến chứng tim mạch lên nhiều lần. Càng nhiều yếu tố kết hợp, tỷ lệ biến chứng tim mạch càng tăng mạnh.
Các yếu tố đó gồm: Tuổi cao; tăng huyết áp; rối loạn lipid máu (tăng cholesterol hoặc triglycerid máu); béo phì (đặc biệt là béo bụng); nghiện thuốc lào, thuốc lá; tình trạng ít vận động; tiền sử gia đình có người chết vì nhồi máu cơ tim.
Trong số này, có 2 yếu tố không thể tác động được, đó là tuổi cao và tiền sử gia đình; các yếu tố còn lại đều có thể tác động làm thay đổi được. Chính vì vậy, khi điều trị bệnh đái tháo đường, không bao giờ được bỏ quên tác động vào các yếu tố nguy cơ này, đặc biệt là thói quen hút thuốc lá.
- Bệnh mạch vành:
Đây là căn nguyên tử vong chủ yếu của bệnh lý tim mạch ở các bệnh nhân ĐTĐ. Một đặc điểm rất quan trọng phải luôn luôn nhấn mạnh, đó là biểu hiện lâm sàng bệnh mạch vành ở các bệnh nhân đái tháo đường rất ít. Nhiều bệnh nhân bị thiếu máu cơ tim, thậm chí nhồi máu cơ tim nặng mà không hề biết, chỉ khi đi khám kiểm tra sức khỏe mới tình cờ phát hiện được. Chính vì lý do đó, những bệnh nhân ĐTĐ phải thường xuyên đi kiểm tra tim mạch định kỳ mới có thể phát hiện sớm các dấu hiệu của thiếu máu cơ tim cục bộ. Tuy nhiên, cũng có nhiều bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng bằng cơn đau thắt ngực (cơn đau thắt sau xương ức, đau có cảm giác như bóp nghẹt tim, lan lên vai trái, cằm hoặc cánh tay trái); hoặc cảm giác tức nặng ngực trái, hồi hộp đánh trống ngực... Trước tất cả các dấu hiệu bất thường, dù là rất nhỏ, người bệnh cũng cần được khám xét kỹ lưỡng về tim mạch. Bệnh nhân có thể được chỉ định làm các thăm dò cần thiết để chẩn đoán bệnh mạch vành như ghi điện tâm đồ lúc nghỉ, ghi điện tim liên tục 24 giờ theo phương pháp Holter; siêu âm tim, nghiệm pháp gắng sức, xạ hình tưới máu cơ tim và chụp mạch vành để phát hiện kịp thời các dấu hiệu của thiếu máu cơ tim và xử trí.
- Bệnh lý mạch máu não:
Chủ yếu là gặp tai biến mạch máu não (hay đột quỵ não), biểu hiện bằng nhồi máu não hoặc xuất huyết não. Biểu hiện lâm sàng bằng đột ngột bại hoặc liệt một nửa người, méo miệng, có thể kèm theo rối loạn ý thức ở các mức độ khác nhau. Các biểu hiện lâm sàng cũng có thể thoáng qua rồi mất, sau đó lại tái phát, cũng có thể bị nặng ngay từ đầu để lại di chứng tàn phế hoặc có thể tử vong; hoặc một vài lần bị tai biến thoáng qua, sau đó bị nặng.
- Bệnh lý mạch máu ngoại biên:
Biểu hiện sớm của tổn thương mạch máu ngoại biên là dấu hiệu "đi cà nhắc cách hồi", nghĩa là người bệnh thấy đau, mỏi chân hay chuột rút khi đi bộ; sau khi nghỉ ngơi, các dấu hiệu hết đi, bệnh nhân lại có thể tiếp tục đi được cho đến khi lại xuất hiện lại các triệu chứng đau. Ngoài ra còn gặp các dấu hiệu khác như chuột rút, loét hay hoại tử đầu chi; sờ mạch có thể thấy mạch mu chân mất hoặc yếu; mất mạch khoeo, huyết áp chi dưới thấp…
XEM THÊM CHIA SẺ CÁCH TRỊ TIỂU ĐƯỜNG HIỆU QUẢ
Theo thông báo của Hiệp hội Đái tháo đường Quốc tế